SỐ LƯỢT TRUY CẬP

2
9
0
5
5
4
1
7
Bản tin quận 20 Tháng Giêng 2020 10:10:00 SA

Thư pháp Việt – hòa cùng sắc xuân

 

Ngày tết là ngày hứa hẹn, là dấu hiệu của niềm tin, là món quà đầy ý nghĩa mà con người tự tạo cho mình - ý nghĩa xã hội, ý nghĩa triết học, ý nghĩa tâm linh,..Cùng với vạn vật hoà vào sắc xuân của trời đất thì những dòng chữ “như phượng múa rồng bay” mà thi nhân đã gửi lời, gửi ý, gửi những hoài vọng trong câu đối, câu chúc tết để đón chào năm mới, cũng là một trong những món quà tinh thần được vật chất hóa để biểu thị cho những ước vọng ngày xuân. Vì vậy, nghệ thuật thư pháp từ lâu đã trở thành nét đẹp văn hoá không thể thiếu trong những ngày tết cổ truyền của dân tộc: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” Hay: “Mỗi năm hoa đào nở/ Lại thấy ông đồ già/ Bày mực tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua”….

 

Âm hưởng cội nguồn

Như một mạch ngầm, tồn tại lặng lẽ với thời gian, nhưng nghệ thuật thư pháp lại có vị trí đáng kể và hàm chứa nhiều giá trị nhân bản, đạo đức xã hội trong thế giới nghệ thuật. Nó thực sự đã vượt khỏi chức năng thông tri của mình và đi thẳng vào thế giới tâm linh của con người. Chính vì vậy, cùng với hội họa âm nhạc, thi ca,… thư pháp được nhìn nhận là nghệ thuật đặc thù “cao cấp”, là biểu tượng thẩm mỹ của nền văn hóa dân tộc ở một số nước phương Đông. Thư pháp Trung Hoa được xem là “linh hồn của mỹ thuật” sánh ngang với các nền nghệ thuật hội hoạ, âm nhạc… Ở Nhật Bản thư pháp được nâng lên thành đạo – “Thư đạo” (shodo) – đó là sự kết hợp hài hòa giữa tinh hoa thiền đạo và nghệ thuật thể hiện. Đối với các quốc gia Hồi giáo sử dụng chữ ARập, họ xem thư pháp là “nghệ thuật thị giác hàng đầu” và trở thành một phần trang trí chính trong các đền thờ đạo Hồi, lâu đài, trường học, dinh thự,…Có thể nói, thư pháp có giá trị to lớn trong đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế giới.

Đối với nước ta, ngay từ xa xưa, khi ông cha chúng ta còn dùng chữ Hán, chữ Nôm làm chữ viết chính thống thì sự quý chữ, trân trọng chữ và kính chữ đã đạt đến tột đỉnh. Điều này được đặt lên hàng đầu và rất được coi trọng của bậc thang và con đường đi vào thế giới học vấn của mỗi người. Hơn thế nữa, nó còn được coi là một trong những chuẩn mực làm nên nhân cách con người. Ông đồ nào, văn nhân nào viết chữ đẹp, danh giá sẽ được lan truyền hàng tỉnh, hàng miền và cả nước. Viết chữ đẹp còn luôn luôn là niềm khát khao và ngưỡng vọng của bất cứ thế hệ nào ở bất cứ miền nào trong đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Phan Ngọc viết rằng “… Khi bước vào một căn nhà Việt Nam cái đập vào mắt ta là câu đối, trướng, hoành phi nhắc chúng ta nhớ đến văn hoá tổ tiên. Tại sao cái tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam không phải là những kiến trúc nguy nga của vua chúa, mà là chữ ? Chữ ghi lại trong các câu đối, hoành phi, trong các gia phả, trong trí nhớ mọi người,…”. Và nhất là những ngày Tết, khắp tỉnh cùng quê ở Việt Nam, hầu hết mọi nhà, từ giới thượng lưu đến giới bình dân, đều dán hoặc treo câu đối tết. Người văn hay chữ  tốt “tự biên tự diễn” cho gia đình mình, kẻ ít học có thể cậy người thân phóng bút, hoặc ra phố chợ mua chữ ở các lều sạp của mấy ông đồ.

Hình ảnh “Ông đồ” trong thơ Vũ Đình Liên (1913 -1996), gần 70 năm qua đã trở thành ký ức đẹp của nhiều lớp người – nhớ lại một thời vang bóng của chữ Hán trong sinh hoạt tập quán của xã hội Việt Nam. Ông đồ gắn liền với chữ viết  “hoa tay thảo những nét / như phượng múa rồng bay”. Họ Vũ nêu lên hình ảnh thiêng liêng của ông đồ, cũng là ca ngợi cái đẹp của chữ Hán. Ở đây, nhà thơ lặng ngẫm về một nét văn hóa cổ truyền đang bị tàn phai. Người thuê viết và người viết thuê như cùng tự nguyện tham gia vào một trò chơi văn hóa. Người viết thỏa thuê trong cái thú chơi chữ, viết như một cuộc chơi, như một nhu cầu giao cảm với con người và trời đất mỗi độ xuân về. Cả người viết lẫn người thuê viết đều biết trọng “cõi tinh thần”, biết hướng đời sống về một vẻ đẹp thanh cao. Còn biết chơi chữ, quý chữ, quý người cho chữ là còn biết trọng cái “thiên lương”, là muốn sống sao cho đẹp. Ấy thế mà nền Nho học đã đến một thời tàn. Sự thắng thế của văn minh Tây học đẩy nhanh những người của thời Nho học vào một vị thế của kẻ ngoài cuộc, mang một mặc cảm lạc điệu, lạc dòng và một tâm trạng bùi ngùi tiếc nuối. Nhưng nhà thơ đã “đọc” ra được rằng: trong cuộc chuyển giao thời vận này có những cái đẹp bị mất mà lẽ ra cần được gìn giữ, được sống mãi với đất nước này. Không phải ngẫu nhiên để nói những người vừa đó của một thời cũng mới vừa qua, nhà thơ gọi ra bằng một chữ “Hồn” (Hồn ở đâu bây giờ ? ). Đây là cách gọi rất Việt Nam đã đành, mà còn chỉ ra được một cách chính xác những cái gì đã qua mà không mất, mà còn mãi. Hồn là bất tử, là không bao giờ mất. Vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hóa Việt chỉ có thăng trầm chứ không bao giờ mất cả.

Nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt

Thật vậy, từ buổi thoái trào của thư pháp qua cảnh “Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay” trong thơ Vũ Đình Liên cho đến nay, có thể nói, nghệ thuật thư pháp Việt Nam đã cách tân và khởi sắc, nó làm một cuộc đổi mới ngoạn mục – đó là sự xuất hiện của thư pháp chữ Việt (theo ký tự La Tinh) – hình ảnh ông đồ vẫn xuất hiện vào những dịp tết lễ như một sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp. Thật ra sự cách tân là một quy luật phát triển nghệ thuật truyền thống. Cách tân làm phong phú truyền thống và thúc đẩy quá trình tiến hóa của nó, làm giàu các hình thức thể loại, phương tiện và thủ pháp biểu hiện. Bởi lẽ, trong tiến trình lịch sử của một dân tộc, nghệ thuật luôn có sự vận động để thích ứng với hoàn cảnh thời đại mà chính nó đang tồn tại. Tuy nhiên, sự cách tân ấy, vẫn luôn giữ được bản chất cốt lõi, cái tinh thần của nghệ thuật truyền thống mà có thể nói đã trở thành nét đặc trưng của nghệ thuật Việt Nam nói chung. Đó là sự hài hòa, bình dị, gần gũi và sâu lắng. Có lẽ vì vậy, mà trong thư pháp chữ Hán của người Việt và cả thư pháp chữ Quốc ngữ hiện nay rất ít thấy xuất hiện những bức cuồng thư như ở Trung Hoa hay mặt tích như Nhât Bản, nhìn chung nó luôn ở trong chừng mực. Thư pháp Việt đã phản ánh đậm nét những đặc trưng tiêu biểu của người Việt như tính linh hoạt, tính biểu cảm, tính tổng hợp…. những đặc tính vốn có của các loại hình nghệ thuật văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa nông nghiệp nói chung. Sự ra đời của nghệ thuật thư pháp chữ Việt một lần nữa minh chứng cho tính dung hợp mạnh mẽ của văn hóa Việt – đó là sự kết hợp cái thần của chữ Hán vào nét chữ quốc ngữ. Với ngọn bút lông “kỳ diệu” (sản phẩm của văn hóa phương Đông) được vận dụng một cách thuần phục, tế nhị vào mẫu tự Latinh (sản phẩm của văn hóa phương Tây). Có thể nói, thư pháp chữ Việt chính là sự giao hòa văn hóa Đông – Tây.

 

Hiện nay, thế giới đang có xu hướng khai thác những giá trị văn hóa truyền thống phương Đông và đang trong quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa. Trong chiều hướng đó, nghệ thuật thư pháp chữ Việt sẽ dễ hòa nhập hơn bởi khả năng tích hợp Đông – Tây của mình. Và trong tương lai sẽ tươi sáng hơn, đóng góp vào nền nghệ thuật dân tộc một mảng nghệ thuật không kém phần độc đáo. Đây chính là yếu tố làm cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam vốn đã phong phú, nay lại càng phong phú và đa dạng hơn. Hy vọng, việc chơi thư pháp, thưởng lãm thư pháp chữ Việt hiện nay không chỉ dừng lại ở tính phong trào mà là sự hiện diện có ý nghĩa của một thú chơi tao nhã, phát huy được cái đẹp, cái hồn của mỗi chữ Việt trong lòng người dân nước Việt. Trong không khí ấm áp của mùa xuân, bên cành mai, chén trà, ly rượu cùng ngồi ngắm những bức tranh chữ để suy ngẫm về triết lý sống của tiền nhân, để gửi gắm những hoài vọng, niềm tin cho một năm mới tràn đầy tốt đẹp thì thật thú vị biết bao.


Số lượt người xem: 651    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Xem tiếp
Xem theo ngày Xem theo ngày
 
Tìm kiếm